Trước tiên xin được giới thiệu e là người Đại Đồng - Thạch Thất- Hà Nội. Sau gần 5 ra bên ngoài học tập và làm việc, em quyết định giới thiệu các món đặc sản quê em.
1 - Chè kho: Gọi là chè kho vừa để phân biệt với các loại chè đỗ xanh khác vừa nói lên sự kỳ công khi làm món chè này. Được nấu từ đỗ xanh, đường, đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu chín rồi đánh tơi sau đó cho vào nước đường khuấy đến khi chè quánh lại múc ra đĩa để nguội. Nghe là vậy nhưng để nấu được đĩa chè kho ngon, đẹp mắt thì không hề đơn giản chút nào, phải thật khéo tay thì chè mới không vón cục, không khê mà có màu sắc đẹp. Bởi vậy mới có chuyện xưa các bà mẹ chồng thử tài nàng dâu bằng nồi chè kho.
Chè kho ngon phải đạt độ vàng sánh mịn, thật khô, ngọt đậm và thơm. Cái độc đáo của món ăn này là để được lâu mà không cần bảo quản cầu kỳ bởi lẽ nó sử dụng lượng đường nhiều hơn so với những món ăn ngọt khác.
Nói đơn giản thế thôi chứ e đã từng ngồi xem ô bác quấy nồi chè rồi. Phải mất cả buổi mới quấy được 1 nồi, mà còn phải quấy đều tay nếu ko chè ko mịn, ko ngon.
2, Quê e còn nổi tiếng về làm kẹo chè lam và kẹo lạc. Nhất là chè lam, ai được ăn món này rồi chắc hẳn sẽ chẳng thể quên được mùi vị. Món này làm cũng khá cầu kỳ: gạo nếp được đem đi nổ, sau rồi đem nghiền. Đun đường, nha cho tới khi nhúng cây đũa vào nước chảy thành dạng kiểu như hình cúc áo thì Ok. Khâu này là lâu và quan trọng nhất. Chè lam cứng hay dẻo cũng ở bước này (cái này là bí quyết của làng và từng nhà, ). Sau rồi đổ lạc đã rang chín vào. 1 lúc sau cho bột,quấy đều tay, đổ ra khay đã rải bột rồi cắt nhỏ cỡ gần bằng ngón tay út.
Kẹo ăn vị ngọt,dẻo, dễ ăn. Quê e trước đây chỉ có ngày Tết mới làm, giờ do nhu cầu mua cũng nhiều nên làm cả ngày bình thường để bán. Kẹo để được rất lâu, đến cả nửa năm đấy chứ!! Đợt Tết vừa rồi e mang dần dần cũng đến cả yến cho lũ bạn chúng nó nhờ mua! Rõ mệt nhưng được cái đứa nào cũng khen ngon nên cũng mát lòng mát dạ.
Kẹo chè lam:
Các bác nhìn chè làm kiểu này mới ngon. Ở thạch thất có 2 dòng chè lam.
1 Gọi là Bánh chè lam: khu chùa thầy (thày) gọi là bánh và làm khác, ăn không ngon bằng.
2. Gọi là Kẹo chè lam: Kẹo thì đặc sản Đại Đồng- Thạch Thất- Hà Nôi.
Các bác sẽ thấy 2 điểm khác ở đây: Nên mới gọi là "Đặc sản Đại Đồng"
1, Chè Kho, cắt miếng không có vừng như chè kho Hà Nội
2. Kẹo chè lam cũng cắt như cái kẹo (bột).Nhận đặt làm Chè Kho, Chè Lam ( Cỗ , cưới, Liên hoan, Mừng thọ...)Nhận giao hàng tận nơi:Liên hê: Mr. Thành.0168.908.1988.
Tìm kiếm Blog này
Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011
Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2011
Xáo Củ Chuối
- Người làng Đại Đồng đi xa làm ăn, nếu được hỏi đến một món đặc sản quê hương - vừa ngon, vừa dân dã mà không ở nơi nào có hoặc làm giống được - tôi nghĩ chắc ai cũng trả lời: Xáo củ chuối.
Trong ngôn ngữ đời thường, nếu không hài lòng về ai hoặc tức mình khi đánh giá một người “không ra gì”, họ thường bật ra một câu phủ nhận xám xịt: “Đồ củ chuối”; nhưng nếu người đó đã đến quê tôi, được mời một bữa cơm trong đó có món xáo củ chuối, thì tôi tin chắc rằng khi ra về, bạn sẽ không mắng những đối tượng kia là “đồ củ chuối” nữa mà ngược lại, bạn sẽ dùng cụm từ này để chỉ người yêu, người thương và những người bạn thích, bạn quý mà bạn không bao giờ quên được là “Đồ củ chuối”...
- Từ rất lâu rồi, không biết từ bao giờ nữa ở Đại Đồng, bất kỳ một đám cỗ nào dù lớn hay nhỏ, dù ăn to hay bé (ở quê, người ta quan niệm “ăn to” là “mâm cao cỗ đầy”), dù việc hiếu, việc hỷ hay giỗ kỵ... đều không thể thiếu được một món - đó là"Xáo Củ Chuối"
Chuối là một loài cây có nguồn gốc ở Đông Nam châu Á và Úc thuộc bộ Zingiberales, họ Musaceae và chi Musa. Thân cây cao từ 2 - 8 mét, người ta quen gọi là thân chứ thực ra đó là “thân giả” (pseudostem). Thân chính của chuối chính là phần chìm dưới đất mà ta quen gọi là củ. Để làm món" Xáo "độc đáo này, người ta chọn những cây chuối non, thân mới chỉ nhú lên mặt đất được vài chục cm, đào lấy củ mang về để làm món" Xáo ". Củ chuối để " Xáo " phải là chuối Tiêu thì củ mới trắng, mềm và ngọt; còn chuối lá thì củ cứng, đen và chát không ngon.
Để chế biến, người ta phải gọt bỏ phần rễ và vỏ sần sùi bên ngoài, bổ đôi củ để có một mặt phẳng, úp xuống thớt cho vững và thái. Dao để thái phải là dao phay sắc, bên cạnh để một chậu nước pha vơi mẻ. Đầu tiên người ta thái những lát mỏng như bánh đa (gọi là ra miếng), sau đó xếp chồng những lát mỏng đó lại thái chỉ. Người khéo tay có thể thái củ chuối rất nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Thái đến đâu, bỏ vào chậu nước pha mẻ đến đó để cho củ chuối ra nhựa và trắng. Để thái được một củ chuối khoảng 2 kg đủ lượng cho một nồi xáo khoảng 5 bát tô, người ta phải thái mất khoảng 40 phút. Khi thái xong thì củ chuối ngâm trong chậu cũng đã vừa đủ độ. Người ta bóp rửa kỹ, vắt sạch và cho vào nồi, cho mẻ, mắm tôm, gia vị và xương cùng một bát mỡ là lợn vào, dùng đũa to đảo kỹ - tốt nhất là dùng tay bóp - ướp khoảng 15-20 phút cho ngấm. Ngoài xương lợn, củ chuối có thể nấu với ba ba, lươn, chạch đồng và cầy đều rất ngon. Ướp xong, đổ nước luộc thịt hoặc nước lã vào cho lên bếp đun khoảng 45 - 60 phút, khi nếm thấy củ chuổi mềm, ngọt là được. Trước khi bắc nồi xuống, cho vào nồi nửa bát tỏi khô đã dập nát, trộn đều, múc ra bát, tưới đều nước lên vừa ngập củ chuối và mời các cụ thưởng thức.
Do đặc điểm riêng, khi nấu củ chuối, mọi chất béo của mỡ lá, chất ngọt của xương, chất chua của mẻ và gia vị đều ngấm hết cả vào củ chuối (người quê hay gọi là “ngã” - tức là các thức đó hợp nhau, tác dụng, hỗ trợ cho nhau để tạo thành món xáo rất ngon). Củ chuối còn có đặc điểm hút và khử chất tanh cực tốt. Món xáo có thể ăn với cơm, uống với rượu bia đều hợp cả. Những sợi củ chuối màu trắng sẫm xen lẫn với thịt và xương lợn, điểm những lát trắng của mỡ lá, trên cùng là những lát tỏi dập; nhưng hương của nó thì ngào ngạt và đậm đà. Gắp một miếng đưa vào miệng từ tốn nhai, ta cảm thấy được cái bùi, cái béo, cái ngậy, cái ngọt, cái thơm ngấm hết cả vào chân răng, đầu lưỡi. Chắc mọi người đồng ý với tôi là, món "Xáo Củ Chuối" có một “nhược điểm” là ăn mãi chỉ thấy no, chứ không thấy ngán. Giống như thịt cầy, "Xáo Củ Chuối"nấu lại (lại lửa) ăn càng ngon...
Tôi rất nghiện món này, ngoài sự độc đáo, ngon miệng, tôi còn đánh giá nó là thực phẩm sạch vì củ ở ngầm dưới đất nên không ai phun thuốc sâu xuống đất cả; nó còn là rau của các loại rau vì nó có rất nhiều chất xơ, rất tốt.
Ở Hà Nội và một vài nơi trong Hà Tây cũ cũng có làm món này, tôi đã ăn rồi nhưng hầu như không được như ở Đại Đồng. Tại dốc Bưởi xuống đầu đường Hoàng Quốc Việt có quán lươn Nghệ An cũng làm món lươn củ chuối; củ chuối họ thái to như nửa chiếc đũa, không ngâm nước vo gạo, không tẩm ướp kỹ, nấu vào niêu đất với lươn nên khi ăn vừa sồn sột (không mềm), vừa chan chát (không ngọt), vưà rời rạc và nhạt nhẽo vì chất ngọt của lươn không ngấm được vào củ chuối. Ở Thanh Oai cũng có một vài nơi nấu món này, họ cũng thái to, ít tẩm ướp... như đã nói trên và nấu với thịt cầy hoặc lợn thái miếng to vuông như bao diêm... Khi ăn cũng không tìm được cảm giác như dân Tổng Đại (tên gọi thân thiết của làng Đại đồng cũ) nấu. Tuy nhiên phải là tự nấu lấy, nếu vào các quán ăn dọc theo đường làng, cũng có món xáo củ chuối, nhưng đó là đồ làm hàng, chất lượng chỉ đạt 50% so với bản chất của nó.
Để tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của món này, tôi đã tham khảo nhiều ý kiến các cụ bô lão trong làng, nhưng mọi người hầu như chỉ biết nấu và chén thôi chứ tuyệt nhiên không biết. Theo suy luận lôgíc, có lẽ nó được xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ trước, khi mà miền Bắc bị những trận đói do mất mùa, người dân không còn gì ăn cả. Lúa, ngô, khoai sắn đều chẳng còn, họ phải ăn cả thân cây đu đủ, thân cây chuối cầm hơi... Riêng ở quê ngày trước chuối được trồng rất nhiều, chắc có người đói quá, bí cái ăn quá nên đào cả củ để nấu ăn cầm hơi. Nạn đói qua đi, nhớ lại món ăn này, họ tự nghĩ ra cách chế biến, gia giảm để biến từ một món lương thực chống đói thành một món thực phẩm khoái khẩu - chứ của chuối không mà luộc ăn thì tức khắc bị tắc nghẹn cổ ngay vì rất chát.
Nói chuyện món ăn, ngẫm lại thì thấy cũng thật lạ: Ngày trước, sơn hào hải vị quý hiếm thì người ta ghi là “Đặc sản”, vậy mà những năm gần đây, khi xã hội phát triển, đời sống khá lên, người ta không gọi thịt bò Úc nhập khẩu, thịt đà điểu châu Phi hay sườn cừu nướng Italia là đặc sản nữa; họ lại coi những món ăn dân dã, thôn quê, hương đồng gió nội như cá rô đồng hạt bưởi, lươn, cua, ốc, ếch, ba ba... là “Đặc sản”.
Bây giờ, nếu Bạn hoặc ai đó nuốn đến Đại Đồng để ăn xáo củ chuối, thì phải dặn trước bởi vì, cùng với việc chế biến mất thời gian, nhà ống mọc lên đã lấn tràn những vườn chuối xanh tốt thuở nào, nên củ chuối trở nên khan hiếm. Được biết, các quán thịt cầy ở làng bây giờ đều nuôi một trung niên chuyên đi săn tìm củ chuối và thái cho quán với giá từ 20k/1kg . Vậy là, một món ăn dân dã rất hấp dẫn đang ngày càng trở nên hiếm, và nếu như vậy, chắc chắn nó lại càng được biến thành “đặc sản”...
Lại nhớ, nhiều lần đi công tác qua quê, đưa anh em cơ quan về nhà ăn xáo củ chuối. Tôi không giới thiệu và cứ để họ ăn; có bốn người ngồi ăn, trên mâm chỉ bày có một bát xáo củ chuối, vậy mà các ông khách gọi đến bát thứ ba để chén tì tì - bỏ qua cả thịt tiểu hổ... - ăn xong, họ hỏi món gì mà tuyệt vậy, tôi mới túc tắc: Đây là món "râu rồng", đặc sản chỉ quê tôi mới có. Vậy là lần sau có chuyến công tác qua làng, các "bố", các bà cừ đòi cho đi cùng để được xơi món "râu rồng" - củ chuối
Trong ngôn ngữ đời thường, nếu không hài lòng về ai hoặc tức mình khi đánh giá một người “không ra gì”, họ thường bật ra một câu phủ nhận xám xịt: “Đồ củ chuối”; nhưng nếu người đó đã đến quê tôi, được mời một bữa cơm trong đó có món xáo củ chuối, thì tôi tin chắc rằng khi ra về, bạn sẽ không mắng những đối tượng kia là “đồ củ chuối” nữa mà ngược lại, bạn sẽ dùng cụm từ này để chỉ người yêu, người thương và những người bạn thích, bạn quý mà bạn không bao giờ quên được là “Đồ củ chuối”...
- Từ rất lâu rồi, không biết từ bao giờ nữa ở Đại Đồng, bất kỳ một đám cỗ nào dù lớn hay nhỏ, dù ăn to hay bé (ở quê, người ta quan niệm “ăn to” là “mâm cao cỗ đầy”), dù việc hiếu, việc hỷ hay giỗ kỵ... đều không thể thiếu được một món - đó là"Xáo Củ Chuối"
Chuối là một loài cây có nguồn gốc ở Đông Nam châu Á và Úc thuộc bộ Zingiberales, họ Musaceae và chi Musa. Thân cây cao từ 2 - 8 mét, người ta quen gọi là thân chứ thực ra đó là “thân giả” (pseudostem). Thân chính của chuối chính là phần chìm dưới đất mà ta quen gọi là củ. Để làm món" Xáo "độc đáo này, người ta chọn những cây chuối non, thân mới chỉ nhú lên mặt đất được vài chục cm, đào lấy củ mang về để làm món" Xáo ". Củ chuối để " Xáo " phải là chuối Tiêu thì củ mới trắng, mềm và ngọt; còn chuối lá thì củ cứng, đen và chát không ngon.
Để chế biến, người ta phải gọt bỏ phần rễ và vỏ sần sùi bên ngoài, bổ đôi củ để có một mặt phẳng, úp xuống thớt cho vững và thái. Dao để thái phải là dao phay sắc, bên cạnh để một chậu nước pha vơi mẻ. Đầu tiên người ta thái những lát mỏng như bánh đa (gọi là ra miếng), sau đó xếp chồng những lát mỏng đó lại thái chỉ. Người khéo tay có thể thái củ chuối rất nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Thái đến đâu, bỏ vào chậu nước pha mẻ đến đó để cho củ chuối ra nhựa và trắng. Để thái được một củ chuối khoảng 2 kg đủ lượng cho một nồi xáo khoảng 5 bát tô, người ta phải thái mất khoảng 40 phút. Khi thái xong thì củ chuối ngâm trong chậu cũng đã vừa đủ độ. Người ta bóp rửa kỹ, vắt sạch và cho vào nồi, cho mẻ, mắm tôm, gia vị và xương cùng một bát mỡ là lợn vào, dùng đũa to đảo kỹ - tốt nhất là dùng tay bóp - ướp khoảng 15-20 phút cho ngấm. Ngoài xương lợn, củ chuối có thể nấu với ba ba, lươn, chạch đồng và cầy đều rất ngon. Ướp xong, đổ nước luộc thịt hoặc nước lã vào cho lên bếp đun khoảng 45 - 60 phút, khi nếm thấy củ chuổi mềm, ngọt là được. Trước khi bắc nồi xuống, cho vào nồi nửa bát tỏi khô đã dập nát, trộn đều, múc ra bát, tưới đều nước lên vừa ngập củ chuối và mời các cụ thưởng thức.
Do đặc điểm riêng, khi nấu củ chuối, mọi chất béo của mỡ lá, chất ngọt của xương, chất chua của mẻ và gia vị đều ngấm hết cả vào củ chuối (người quê hay gọi là “ngã” - tức là các thức đó hợp nhau, tác dụng, hỗ trợ cho nhau để tạo thành món xáo rất ngon). Củ chuối còn có đặc điểm hút và khử chất tanh cực tốt. Món xáo có thể ăn với cơm, uống với rượu bia đều hợp cả. Những sợi củ chuối màu trắng sẫm xen lẫn với thịt và xương lợn, điểm những lát trắng của mỡ lá, trên cùng là những lát tỏi dập; nhưng hương của nó thì ngào ngạt và đậm đà. Gắp một miếng đưa vào miệng từ tốn nhai, ta cảm thấy được cái bùi, cái béo, cái ngậy, cái ngọt, cái thơm ngấm hết cả vào chân răng, đầu lưỡi. Chắc mọi người đồng ý với tôi là, món "Xáo Củ Chuối" có một “nhược điểm” là ăn mãi chỉ thấy no, chứ không thấy ngán. Giống như thịt cầy, "Xáo Củ Chuối"nấu lại (lại lửa) ăn càng ngon...
Tôi rất nghiện món này, ngoài sự độc đáo, ngon miệng, tôi còn đánh giá nó là thực phẩm sạch vì củ ở ngầm dưới đất nên không ai phun thuốc sâu xuống đất cả; nó còn là rau của các loại rau vì nó có rất nhiều chất xơ, rất tốt.
Ở Hà Nội và một vài nơi trong Hà Tây cũ cũng có làm món này, tôi đã ăn rồi nhưng hầu như không được như ở Đại Đồng. Tại dốc Bưởi xuống đầu đường Hoàng Quốc Việt có quán lươn Nghệ An cũng làm món lươn củ chuối; củ chuối họ thái to như nửa chiếc đũa, không ngâm nước vo gạo, không tẩm ướp kỹ, nấu vào niêu đất với lươn nên khi ăn vừa sồn sột (không mềm), vừa chan chát (không ngọt), vưà rời rạc và nhạt nhẽo vì chất ngọt của lươn không ngấm được vào củ chuối. Ở Thanh Oai cũng có một vài nơi nấu món này, họ cũng thái to, ít tẩm ướp... như đã nói trên và nấu với thịt cầy hoặc lợn thái miếng to vuông như bao diêm... Khi ăn cũng không tìm được cảm giác như dân Tổng Đại (tên gọi thân thiết của làng Đại đồng cũ) nấu. Tuy nhiên phải là tự nấu lấy, nếu vào các quán ăn dọc theo đường làng, cũng có món xáo củ chuối, nhưng đó là đồ làm hàng, chất lượng chỉ đạt 50% so với bản chất của nó.
Để tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của món này, tôi đã tham khảo nhiều ý kiến các cụ bô lão trong làng, nhưng mọi người hầu như chỉ biết nấu và chén thôi chứ tuyệt nhiên không biết. Theo suy luận lôgíc, có lẽ nó được xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ trước, khi mà miền Bắc bị những trận đói do mất mùa, người dân không còn gì ăn cả. Lúa, ngô, khoai sắn đều chẳng còn, họ phải ăn cả thân cây đu đủ, thân cây chuối cầm hơi... Riêng ở quê ngày trước chuối được trồng rất nhiều, chắc có người đói quá, bí cái ăn quá nên đào cả củ để nấu ăn cầm hơi. Nạn đói qua đi, nhớ lại món ăn này, họ tự nghĩ ra cách chế biến, gia giảm để biến từ một món lương thực chống đói thành một món thực phẩm khoái khẩu - chứ của chuối không mà luộc ăn thì tức khắc bị tắc nghẹn cổ ngay vì rất chát.
Nói chuyện món ăn, ngẫm lại thì thấy cũng thật lạ: Ngày trước, sơn hào hải vị quý hiếm thì người ta ghi là “Đặc sản”, vậy mà những năm gần đây, khi xã hội phát triển, đời sống khá lên, người ta không gọi thịt bò Úc nhập khẩu, thịt đà điểu châu Phi hay sườn cừu nướng Italia là đặc sản nữa; họ lại coi những món ăn dân dã, thôn quê, hương đồng gió nội như cá rô đồng hạt bưởi, lươn, cua, ốc, ếch, ba ba... là “Đặc sản”.
Bây giờ, nếu Bạn hoặc ai đó nuốn đến Đại Đồng để ăn xáo củ chuối, thì phải dặn trước bởi vì, cùng với việc chế biến mất thời gian, nhà ống mọc lên đã lấn tràn những vườn chuối xanh tốt thuở nào, nên củ chuối trở nên khan hiếm. Được biết, các quán thịt cầy ở làng bây giờ đều nuôi một trung niên chuyên đi săn tìm củ chuối và thái cho quán với giá từ 20k/1kg . Vậy là, một món ăn dân dã rất hấp dẫn đang ngày càng trở nên hiếm, và nếu như vậy, chắc chắn nó lại càng được biến thành “đặc sản”...
Lại nhớ, nhiều lần đi công tác qua quê, đưa anh em cơ quan về nhà ăn xáo củ chuối. Tôi không giới thiệu và cứ để họ ăn; có bốn người ngồi ăn, trên mâm chỉ bày có một bát xáo củ chuối, vậy mà các ông khách gọi đến bát thứ ba để chén tì tì - bỏ qua cả thịt tiểu hổ... - ăn xong, họ hỏi món gì mà tuyệt vậy, tôi mới túc tắc: Đây là món "râu rồng", đặc sản chỉ quê tôi mới có. Vậy là lần sau có chuyến công tác qua làng, các "bố", các bà cừ đòi cho đi cùng để được xơi món "râu rồng" - củ chuối
Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011
Lươn Bung Củ Chuối- Hương Vị Mùa Hè
Lươn bung củ chuối - hương vị mùa hè
Mỗi lần nhớ về kỷ niệm vui mùa hè xanh, chúng tôi lại đọc vui câu ca để nhớ lại hương vị món ăn dân dã: "Cá rô quyện với nồi rang/ Còn như củ chuối, lươn vàng quyện nhau"...
Được thưởng thức lươn bung củ chuối là một trong những trải nghiệm thú vị cho ngày hè tình nguyện của chúng tôi. Mỗi lần nhớ về Đại Đồng, nhớ về kỷ niệm vui mùa hè xanh, chúng tôi lại đọc vui câu ca để nhớ lại hương vị của món ăn dân dã: "Cá rô quyện với nồi rang/ Còn như củ chuối, lươn vàng quyện nhau"...
Lươn vàng quyện củ chuối |
Có dịp "tình nguyện" về xã Đại Đồng, Thạch Thất, Hà Nội, chiến sĩ Mùa hè xanh bọn tôi được người dân nơi đây đãi món lươn bung củ chuối. Hương vị dân dã đậm đà đã trở thành món ngon đặc biệt với những sinh viên quen cơm bụi thành phố.
Mùa mưa tháng 8 chuẩn bị Tết Trung thu cũng là mùa lươn vào vụ. Những con lươn đồng nhờ nước cả tìm mồi nên béo vàng óng mượt. Tôi đã từng ăn lươn nấu cháo, lươn xào sả ớt nhưng lươn bung củ chuối thì lần đầu mới được thưởng thức.
Lươn vàng to bằng ngón chân cái, da óng mượt mới đơm từ đồng về, nhìn chưa quen thấy hơi sờ sợ vì ở chợ Hà Nội chỉ nhìn những con lươn đen, nhỏ - ăn loại ấy thì không ngậy và béo như lươn vàng. Chỉ cần dùng tro bếp và lá chuối khô vuốt qua là lươn đã sạch nhớt, mổ bụng bỏ ruột và cắt khúc dài hai đốt tay, lấy chuôi dao dần sống lươn mềm để nấu nhanh nhừ.
Lươn là một loài sống dưới bùn ở trong hang hốc nên có tác dụng bổ âm mạnh. Lươn nấu củ chuối để trung hòa cái âm tính vốn rất mạnh của lươn với dương tính chuối củ thành một món ăn bổ dưỡng, thích hợp với mọi người. Lươn bung củ chuối là món ăn phổ biến ở các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ như vùng Sơn Tây - Thạch Thất (Hà Nội), Hà Nam, Thanh Hóa… |
Sau khi lươn và củ chuối đã sẵn sàng, cho hai thứ vào nồi bóp với mẻ cùng chút mắm tôm, hành, gia vị và đặc biệt là vỏ quýt khử chất tanh của lươn, để khoảng 5 phút cho ngấm mới đổ nước vào nồi bung, chú ý thêm nước nghệ tươi tạo màu cho món ăn.
Điều quan trọng trong món ăn này là bung cho lươn và củ chuối quyện ra vị ngọt, vì thế phải ninh nhỏ lửa, đun lâu. “Thấy cạn thì cho thêm chút nước, lươn bung củ chuối tuyệt đối không được đảo, lươn sẽ không còn nguyên miếng và củ chuối lại bị nát” - bác Hạnh, mẹ anh bí thư xã, chia sẻ bí quyết khi thấy tôi thích thú với món ăn này. Khi nào thấy chuối mềm nhừ mà nước sánh sền sệt là bắc ra, cho thêm hành lá, lá lốt là ăn được.
Chất tanh béo của lươn vàng hòa với vị hơi chát của củ chuối hột, cộng thêm vị chua của mẻ, nhấn nhá chút cay của vỏ quýt và ớt, chất ngọt của mắm tôm... tạo thành thứ hương vị đặc biệt. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt thu hút cái dạ dày đang đói sau ngày lao động tình nguyện hăng say của lũ sinh viên.
Đặc Sản Củ Chuối
Đặc Sản “Củ Chuối”
Với món ăn là Đặc Sản duy nhất chỉ có ở Quê Hương Đại Đồng chúng tôi. Đặc Sản Củ Chuối sẽ
là món ăn ngon nhất, món ăn bổ dưỡng nhất và tuyệt với nhất mà quý khách từng biết.
Đơn Vị Thành Củ Chuối
Nhận nấu cỗ tại gia, Cưới, Tiệc, Hội Nghị, …. duy nhất 1 món Xáo Củ Chuốii( Lươn bung Củ Chuối - Xương xáo củ chuối)
Đơn vị “Thành Củ Chuối” Chúng tôi hận hạnh phục vụ quý khách hàng gần xa.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
Mr . Thành. 0168.908.1988
Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011
Đặc Sản Củ Chuối
- Người làng Đại Đồng đi xa làm ăn, nếu được hỏi đến một món đặc sản quê hương - vừa ngon, vừa dân dã mà không ở nơi nào có hoặc làm giống được - tôi nghĩ chắc ai cũng trả lời: Xáo củ chuối.
Trong ngôn ngữ đời thường, nếu không hài lòng về ai hoặc tức mình khi đánh giá một người “không ra gì”, họ thường bật ra một câu phủ nhận xám xịt: “Đồ củ chuối”; nhưng nếu người đó đã đến quê tôi, được mời một bữa cơm trong đó có món xáo củ chuối, thì tôi tin chắc rằng khi ra về, bạn sẽ không mắng những đối tượng kia là “đồ củ chuối” nữa mà ngược lại, bạn sẽ dùng cụm từ này để chỉ người yêu, người thương và những người bạn thích, bạn quý mà bạn không bao giờ quên được là “Đồ củ chuối”...
- Từ rất lâu rồi, không biết từ bao giờ nữa ở Đại Đồng, bất kỳ một đám cỗ nào dù lớn hay nhỏ, dù ăn to hay bé (ở quê, người ta quan niệm “ăn to” là “mâm cao cỗ đầy”), dù việc hiếu, việc hỷ hay giỗ kỵ... đều không thể thiếu được một món - đó là "Xáo Củ Chuối"
Chuối là một loài cây có nguồn gốc ở Đông Nam châu Á và Úc thuộc bộ Zingiberales, họ Musaceae và chi Musa. Thân cây cao từ 2 - 8 mét, người ta quen gọi là thân chứ thực ra đó là “thân giả” (pseudostem). Thân chính của chuối chính là phần chìm dưới đất mà ta quen gọi là củ. Để làm món" Xáo "độc đáo này, người ta chọn những cây chuối non, thân mới chỉ nhú lên mặt đất được vài chục cm, đào lấy củ mang về để làm món" Xáo ". Củ chuối để " Xáo " phải là chuối Tiêu thì củ mới trắng, mềm và ngọt; còn chuối lá thì củ cứng, đen và chát không ngon.
Để chế biến, người ta phải gọt bỏ phần rễ và vỏ sần sùi bên ngoài, bổ đôi củ để có một mặt phẳng, úp xuống thớt cho vững và thái. Dao để thái phải là dao phay sắc, bên cạnh để một chậu nước pha vơi mẻ. Đầu tiên người ta thái những lát mỏng như bánh đa (gọi là ra miếng), sau đó xếp chồng những lát mỏng đó lại thái chỉ. Người khéo tay có thể thái củ chuối rất nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Thái đến đâu, bỏ vào chậu nước pha mẻ đến đó để cho củ chuối ra nhựa và trắng. Để thái được một củ chuối khoảng 2 kg đủ lượng cho một nồi xáo khoảng 5 bát tô, người ta phải thái mất khoảng 40 phút. Khi thái xong thì củ chuối ngâm trong chậu cũng đã vừa đủ độ. Người ta bóp rửa kỹ, vắt sạch và cho vào nồi, cho mẻ, mắm tôm, gia vị và xương cùng một bát mỡ là lợn vào, dùng đũa to đảo kỹ - tốt nhất là dùng tay bóp - ướp khoảng 15-20 phút cho ngấm. Ngoài xương lợn, củ chuối có thể nấu với ba ba, lươn, chạch đồng và cầy đều rất ngon. Ướp xong, đổ nước luộc thịt hoặc nước lã vào cho lên bếp đun khoảng 45 - 60 phút, khi nếm thấy củ chuổi mềm, ngọt là được. Trước khi bắc nồi xuống, cho vào nồi nửa bát tỏi khô đã dập nát, trộn đều, múc ra bát, tưới đều nước lên vừa ngập củ chuối và mời các cụ thưởng thức.
Do đặc điểm riêng, khi nấu củ chuối, mọi chất béo của mỡ lá, chất ngọt của xương, chất chua của mẻ và gia vị đều ngấm hết cả vào củ chuối (người quê hay gọi là “ngã” - tức là các thức đó hợp nhau, tác dụng, hỗ trợ cho nhau để tạo thành món xáo rất ngon). Củ chuối còn có đặc điểm hút và khử chất tanh cực tốt. Món xáo có thể ăn với cơm, uống với rượu bia đều hợp cả. Những sợi củ chuối màu trắng sẫm xen lẫn với thịt và xương lợn, điểm những lát trắng của mỡ lá, trên cùng là những lát tỏi dập; nhưng hương của nó thì ngào ngạt và đậm đà. Gắp một miếng đưa vào miệng từ tốn nhai, ta cảm thấy được cái bùi, cái béo, cái ngậy, cái ngọt, cái thơm ngấm hết cả vào chân răng, đầu lưỡi. Chắc mọi người đồng ý với tôi là, món "Xáo Củ Chuối" có một “nhược điểm” là ăn mãi chỉ thấy no, chứ không thấy ngán. Giống như thịt cầy, "Xáo Củ Chuối"nấu lại (lại lửa) ăn càng ngon...
Tôi rất nghiện món này, ngoài sự độc đáo, ngon miệng, tôi còn đánh giá nó là thực phẩm sạch vì củ ở ngầm dưới đất nên không ai phun thuốc sâu xuống đất cả; nó còn là rau của các loại rau vì nó có rất nhiều chất xơ, rất tốt.
Ở Hà Nội và một vài nơi trong Hà Tây cũ cũng có làm món này, tôi đã ăn rồi nhưng hầu như không được như ở Đại Đồng. Tại dốc Bưởi xuống đầu đường Hoàng Quốc Việt có quán lươn Nghệ An cũng làm món lươn củ chuối; củ chuối họ thái to như nửa chiếc đũa, không ngâm nước vo gạo, không tẩm ướp kỹ, nấu vào niêu đất với lươn nên khi ăn vừa sồn sột (không mềm), vừa chan chát (không ngọt), vưà rời rạc và nhạt nhẽo vì chất ngọt của lươn không ngấm được vào củ chuối. Ở Thanh Oai cũng có một vài nơi nấu món này, họ cũng thái to, ít tẩm ướp... như đã nói trên và nấu với thịt cầy hoặc lợn thái miếng to vuông như bao diêm... Khi ăn cũng không tìm được cảm giác như dân Tổng Đại (tên gọi thân thiết của làng Đại đồng cũ) nấu. Tuy nhiên phải là tự nấu lấy, nếu vào các quán ăn dọc theo đường làng, cũng có món xáo củ chuối, nhưng đó là đồ làm hàng, chất lượng chỉ đạt 50% so với bản chất của nó.
Để tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của món này, tôi đã tham khảo nhiều ý kiến các cụ bô lão trong làng, nhưng mọi người hầu như chỉ biết nấu và chén thôi chứ tuyệt nhiên không biết. Theo suy luận lôgíc, có lẽ nó được xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ trước, khi mà miền Bắc bị những trận đói do mất mùa, người dân không còn gì ăn cả. Lúa, ngô, khoai sắn đều chẳng còn, họ phải ăn cả thân cây đu đủ, thân cây chuối cầm hơi... Riêng ở quê ngày trước chuối được trồng rất nhiều, chắc có người đói quá, bí cái ăn quá nên đào cả củ để nấu ăn cầm hơi. Nạn đói qua đi, nhớ lại món ăn này, họ tự nghĩ ra cách chế biến, gia giảm để biến từ một món lương thực chống đói thành một món thực phẩm khoái khẩu - chứ của chuối không mà luộc ăn thì tức khắc bị tắc nghẹn cổ ngay vì rất chát.
Nói chuyện món ăn, ngẫm lại thì thấy cũng thật lạ: Ngày trước, sơn hào hải vị quý hiếm thì người ta ghi là “Đặc sản”, vậy mà những năm gần đây, khi xã hội phát triển, đời sống khá lên, người ta không gọi thịt bò Úc nhập khẩu, thịt đà điểu châu Phi hay sườn cừu nướng Italia là đặc sản nữa; họ lại coi những món ăn dân dã, thôn quê, hương đồng gió nội như cá rô đồng hạt bưởi, lươn, cua, ốc, ếch, ba ba... là “Đặc sản”.
Bây giờ, nếu Bạn hoặc ai đó nuốn đến Đại Đồng để ăn xáo củ chuối, thì phải dặn trước bởi vì, cùng với việc chế biến mất thời gian, nhà ống mọc lên đã lấn tràn những vườn chuối xanh tốt thuở nào, nên củ chuối trở nên khan hiếm. Được biết, các quán thịt cầy ở làng bây giờ đều nuôi một trung niên chuyên đi săn tìm củ chuối và thái cho quán với giá từ 20k/1kg . Vậy là, một món ăn dân dã rất hấp dẫn đang ngày càng trở nên hiếm, và nếu như vậy, chắc chắn nó lại càng được biến thành “đặc sản”...
Lại nhớ, nhiều lần đi công tác qua quê, đưa anh em cơ quan về nhà ăn xáo củ chuối. Tôi không giới thiệu và cứ để họ ăn; có bốn người ngồi ăn, trên mâm chỉ bày có một bát xáo củ chuối, vậy mà các ông khách gọi đến bát thứ ba để chén tì tì - bỏ qua cả thịt tiểu hổ... - ăn xong, họ hỏi món gì mà tuyệt vậy, tôi mới túc tắc: Đây là món "râu rồng", đặc sản chỉ quê tôi mới có. Vậy là lần sau có chuyến công tác qua làng, các "bố", các bà cừ đòi cho đi cùng để được xơi món "râu rồng" - củ chuối.
Trong ngôn ngữ đời thường, nếu không hài lòng về ai hoặc tức mình khi đánh giá một người “không ra gì”, họ thường bật ra một câu phủ nhận xám xịt: “Đồ củ chuối”; nhưng nếu người đó đã đến quê tôi, được mời một bữa cơm trong đó có món xáo củ chuối, thì tôi tin chắc rằng khi ra về, bạn sẽ không mắng những đối tượng kia là “đồ củ chuối” nữa mà ngược lại, bạn sẽ dùng cụm từ này để chỉ người yêu, người thương và những người bạn thích, bạn quý mà bạn không bao giờ quên được là “Đồ củ chuối”...
- Từ rất lâu rồi, không biết từ bao giờ nữa ở Đại Đồng, bất kỳ một đám cỗ nào dù lớn hay nhỏ, dù ăn to hay bé (ở quê, người ta quan niệm “ăn to” là “mâm cao cỗ đầy”), dù việc hiếu, việc hỷ hay giỗ kỵ... đều không thể thiếu được một món - đó là "Xáo Củ Chuối"
Chuối là một loài cây có nguồn gốc ở Đông Nam châu Á và Úc thuộc bộ Zingiberales, họ Musaceae và chi Musa. Thân cây cao từ 2 - 8 mét, người ta quen gọi là thân chứ thực ra đó là “thân giả” (pseudostem). Thân chính của chuối chính là phần chìm dưới đất mà ta quen gọi là củ. Để làm món" Xáo "độc đáo này, người ta chọn những cây chuối non, thân mới chỉ nhú lên mặt đất được vài chục cm, đào lấy củ mang về để làm món" Xáo ". Củ chuối để " Xáo " phải là chuối Tiêu thì củ mới trắng, mềm và ngọt; còn chuối lá thì củ cứng, đen và chát không ngon.
Để chế biến, người ta phải gọt bỏ phần rễ và vỏ sần sùi bên ngoài, bổ đôi củ để có một mặt phẳng, úp xuống thớt cho vững và thái. Dao để thái phải là dao phay sắc, bên cạnh để một chậu nước pha vơi mẻ. Đầu tiên người ta thái những lát mỏng như bánh đa (gọi là ra miếng), sau đó xếp chồng những lát mỏng đó lại thái chỉ. Người khéo tay có thể thái củ chuối rất nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Thái đến đâu, bỏ vào chậu nước pha mẻ đến đó để cho củ chuối ra nhựa và trắng. Để thái được một củ chuối khoảng 2 kg đủ lượng cho một nồi xáo khoảng 5 bát tô, người ta phải thái mất khoảng 40 phút. Khi thái xong thì củ chuối ngâm trong chậu cũng đã vừa đủ độ. Người ta bóp rửa kỹ, vắt sạch và cho vào nồi, cho mẻ, mắm tôm, gia vị và xương cùng một bát mỡ là lợn vào, dùng đũa to đảo kỹ - tốt nhất là dùng tay bóp - ướp khoảng 15-20 phút cho ngấm. Ngoài xương lợn, củ chuối có thể nấu với ba ba, lươn, chạch đồng và cầy đều rất ngon. Ướp xong, đổ nước luộc thịt hoặc nước lã vào cho lên bếp đun khoảng 45 - 60 phút, khi nếm thấy củ chuổi mềm, ngọt là được. Trước khi bắc nồi xuống, cho vào nồi nửa bát tỏi khô đã dập nát, trộn đều, múc ra bát, tưới đều nước lên vừa ngập củ chuối và mời các cụ thưởng thức.
Do đặc điểm riêng, khi nấu củ chuối, mọi chất béo của mỡ lá, chất ngọt của xương, chất chua của mẻ và gia vị đều ngấm hết cả vào củ chuối (người quê hay gọi là “ngã” - tức là các thức đó hợp nhau, tác dụng, hỗ trợ cho nhau để tạo thành món xáo rất ngon). Củ chuối còn có đặc điểm hút và khử chất tanh cực tốt. Món xáo có thể ăn với cơm, uống với rượu bia đều hợp cả. Những sợi củ chuối màu trắng sẫm xen lẫn với thịt và xương lợn, điểm những lát trắng của mỡ lá, trên cùng là những lát tỏi dập; nhưng hương của nó thì ngào ngạt và đậm đà. Gắp một miếng đưa vào miệng từ tốn nhai, ta cảm thấy được cái bùi, cái béo, cái ngậy, cái ngọt, cái thơm ngấm hết cả vào chân răng, đầu lưỡi. Chắc mọi người đồng ý với tôi là, món "Xáo Củ Chuối" có một “nhược điểm” là ăn mãi chỉ thấy no, chứ không thấy ngán. Giống như thịt cầy, "Xáo Củ Chuối"nấu lại (lại lửa) ăn càng ngon...
Tôi rất nghiện món này, ngoài sự độc đáo, ngon miệng, tôi còn đánh giá nó là thực phẩm sạch vì củ ở ngầm dưới đất nên không ai phun thuốc sâu xuống đất cả; nó còn là rau của các loại rau vì nó có rất nhiều chất xơ, rất tốt.
Ở Hà Nội và một vài nơi trong Hà Tây cũ cũng có làm món này, tôi đã ăn rồi nhưng hầu như không được như ở Đại Đồng. Tại dốc Bưởi xuống đầu đường Hoàng Quốc Việt có quán lươn Nghệ An cũng làm món lươn củ chuối; củ chuối họ thái to như nửa chiếc đũa, không ngâm nước vo gạo, không tẩm ướp kỹ, nấu vào niêu đất với lươn nên khi ăn vừa sồn sột (không mềm), vừa chan chát (không ngọt), vưà rời rạc và nhạt nhẽo vì chất ngọt của lươn không ngấm được vào củ chuối. Ở Thanh Oai cũng có một vài nơi nấu món này, họ cũng thái to, ít tẩm ướp... như đã nói trên và nấu với thịt cầy hoặc lợn thái miếng to vuông như bao diêm... Khi ăn cũng không tìm được cảm giác như dân Tổng Đại (tên gọi thân thiết của làng Đại đồng cũ) nấu. Tuy nhiên phải là tự nấu lấy, nếu vào các quán ăn dọc theo đường làng, cũng có món xáo củ chuối, nhưng đó là đồ làm hàng, chất lượng chỉ đạt 50% so với bản chất của nó.
Để tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ của món này, tôi đã tham khảo nhiều ý kiến các cụ bô lão trong làng, nhưng mọi người hầu như chỉ biết nấu và chén thôi chứ tuyệt nhiên không biết. Theo suy luận lôgíc, có lẽ nó được xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ trước, khi mà miền Bắc bị những trận đói do mất mùa, người dân không còn gì ăn cả. Lúa, ngô, khoai sắn đều chẳng còn, họ phải ăn cả thân cây đu đủ, thân cây chuối cầm hơi... Riêng ở quê ngày trước chuối được trồng rất nhiều, chắc có người đói quá, bí cái ăn quá nên đào cả củ để nấu ăn cầm hơi. Nạn đói qua đi, nhớ lại món ăn này, họ tự nghĩ ra cách chế biến, gia giảm để biến từ một món lương thực chống đói thành một món thực phẩm khoái khẩu - chứ của chuối không mà luộc ăn thì tức khắc bị tắc nghẹn cổ ngay vì rất chát.
Nói chuyện món ăn, ngẫm lại thì thấy cũng thật lạ: Ngày trước, sơn hào hải vị quý hiếm thì người ta ghi là “Đặc sản”, vậy mà những năm gần đây, khi xã hội phát triển, đời sống khá lên, người ta không gọi thịt bò Úc nhập khẩu, thịt đà điểu châu Phi hay sườn cừu nướng Italia là đặc sản nữa; họ lại coi những món ăn dân dã, thôn quê, hương đồng gió nội như cá rô đồng hạt bưởi, lươn, cua, ốc, ếch, ba ba... là “Đặc sản”.
Bây giờ, nếu Bạn hoặc ai đó nuốn đến Đại Đồng để ăn xáo củ chuối, thì phải dặn trước bởi vì, cùng với việc chế biến mất thời gian, nhà ống mọc lên đã lấn tràn những vườn chuối xanh tốt thuở nào, nên củ chuối trở nên khan hiếm. Được biết, các quán thịt cầy ở làng bây giờ đều nuôi một trung niên chuyên đi săn tìm củ chuối và thái cho quán với giá từ 20k/1kg . Vậy là, một món ăn dân dã rất hấp dẫn đang ngày càng trở nên hiếm, và nếu như vậy, chắc chắn nó lại càng được biến thành “đặc sản”...
Lại nhớ, nhiều lần đi công tác qua quê, đưa anh em cơ quan về nhà ăn xáo củ chuối. Tôi không giới thiệu và cứ để họ ăn; có bốn người ngồi ăn, trên mâm chỉ bày có một bát xáo củ chuối, vậy mà các ông khách gọi đến bát thứ ba để chén tì tì - bỏ qua cả thịt tiểu hổ... - ăn xong, họ hỏi món gì mà tuyệt vậy, tôi mới túc tắc: Đây là món "râu rồng", đặc sản chỉ quê tôi mới có. Vậy là lần sau có chuyến công tác qua làng, các "bố", các bà cừ đòi cho đi cùng để được xơi món "râu rồng" - củ chuối.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)